Hiện nay, có một số trường hợp các chủ thể cần tìm hiểu về các loại tội phạm, trong đó có thể kể đến tội trốn thuế. Để hiểu rõ hơn về loại tội phạm này, mời quý bạn đọc cùng theo dõi bài viết về Các vụ án trốn thuế thu nhập doanh nghiệp tiêu biểu của Luật Đại Nam để có thêm thông tin.
Nội Dung Chính
Tội trốn thuế
Tội trốn thuế được hiểu là hành vi vi phạm quy định về quản lý thuế của Nhà nước nhằm mục đích không nộp tiên thuế cho Nhà nước được quy định tại Điều 200 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, đây là một tội hình sự.
Các vụ án trốn thuế thu nhập doanh nghiệp tiêu biểu
Quyết định giám đốc thẩm số 12/2016/HS-GĐT ngày 04/08/2016 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Nội dung vụ án: Công ty B được thành lập ngày 12/08/2007, do Trần Thị Quý P làm giám đốc, trụ sở E tại đường C, phường D, thành phố E, tỉnh Gia Lai. Việc điều hành công ty do P quyết định mọi việc, các cổ đông không tham gia. Trong quá trình thi công 11 công trình từ năm 2009 đến năm 2011, P đã có hành vi phạm tội là
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản: từ năm 2009 đến 2011, Công ty B có quan hệ mua bán vật liệu xây dựng với Doanh nghiệp tư nhân của Võ Thị T là người trực tiếp điều hành, ông Nguyễn Quốc T là chủ doanh nghiệp và mua bán nhiên liệu với doanh nghiệp P do Huỳnh Thị Kim A làm chủ. Các doanh nghiệp này có hành vi cung cấp 67 hóa đơn GTGT khống cho P. P đã dùng để kê khai hoàn thuế khấu trừ của 02 năm 2010 và 2011, chiếm đoạt của Nhà nước 1.652.773.415 đồng.
Trốn thuế: Trong 1.991.262.018 đồng tiền thuế gây thiệt hại cho nhà nước, có 10 hóa đơn có số tiền 140.781.700 đồng được kê khai khấu trừ thuế trong các tháng 6, 7 năm 2010 và tháng 10,11 năm 2011, không nằm trong hai kỳ hoàn thuế của Công ty B để trốn thuế với số tiền 140.781.700 đồng.
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản: Từ tháng 11/2008 đến năm 2011, Công ty B trúng thầu nhiều công trình trên địa bàn tỉnh Gia Lai với tổng số tiến đầu tư là 112.324.645.000 đồng. Công ty B đã tạm ứng 49.114.900.000 đồng, nhưng P không nhập quỹ, không hạch toán trên sổ sách dẫn đến không có khả năng trả nợ tiền tạm ứng cho các chủ đầu tư. Thông qua hành vi gian dối và sử dụng tài sản không hợp pháp, P chiếm đoạt số tiền của Ban quản lý dự án là 12.685.385.342 đồng
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Xử phạt Trần Thị Quỷ P 11 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 13 năm tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, 03 tháng tù về tội Trốn thuế, tổng cộng P phải chấp hành hình phạt chung là 24 năm 03 tháng tù.
Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Xử phạt Trần Thị Quỷ P 08 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” 12 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và 09 tháng cải tạo không giam giữ chuyển thành 03 tháng tù về tội “Trốn thuế”; tổng hợp hình phạt chung cho cả ba tội, buộc bị cáo Trần Thị Quý P phải chấp hành là 20 năm 03 tháng tù.
Về vật chứng liên quan đến vụ án: Giao cho bà Đặng Thị Lan P chiếc xe ô tô Volkswagen Tiguan Das Package, biển số 81A-00278. Bà Đặng Thị Lan P được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để hoàn chỉnh thủ tục sang tên sở hữu.
Nhận định của Tòa án cấp Giám đốc thẩm: Trấn Thị Quý P đã sử dụng 1.667.500.000 đồng trong tổng số tiền tạm ứng của Ban quản lý các dự án đầu tư xây dựng huyện K để mua chiếc xe tặng cho ông Trần Thế V, nguyên Giám đốc sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh X nhằm mục đích tạo mối quan hệ để ông V giúp đỡ Công ty của bị cáo trong quá trình hoạt động.
Lời khai trên của Trần Thị Quý P phù hợp với thực tế là sau khi mua xe ô tô và làm các thủ tục đăng ký lấy biển số xe xong, Trấn Thị Quý P đã giao chiếc xe này cho gia đình ông Trần Thế V sử dụng ngay.
Từ lúc mua xe đến lúc vụ án bị phát hiện, không có cá nhân nào trong gia đình P hoặc nhân viên của Công ty B sử dụng. Chiếc xe ô tô biển kiểm soát 81A-00278 đứng tên Công ty B do Trần Thị Quý P làm giám đốc đa được mua từ nguồn tiền tạm ứng của Ban quản lý các dự án đầu tư xây dựng huyện K, hiện nay Công ty B của Trấn Thị Quý P còn nợ tiền tạm ứng của Ban quản lý dự án K và không có khả năng thanh toán nợ.
Vì vậy, Hợp đồng mua bán xe số 01/2011/HĐMB ngày 24/9/2011 và Hợp đồng ủy quyền xe ô tô ngày 30/9/2011 giữa Trấn Thị Quỳ P và bà Đặng Thị Lan P có nội dung trái pháp luật. Chiếc xe ô tô này là vật chứng của vụ án cắn phải được thu hồi để bảo đảm việc trả nợ của Công ty B đối với khoản tiền đã tạm ứng của các Ban quản lý dự án và bảo đảm thi hành án đối với bị cáo Trấn Thị Quý P.
Giám đốc thẩm quyết định: Hủy Bản án hình sự phúc thẩm về phần xử lý vật chứng là chiếc xe ô tô biển được giao dịch giữa bị cáo Trần Thị Quý P và bà Đặng Thị Lan P; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Bản án số 35/2017/HSST ngày 31/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện A Thành phố Hải Phòng
Nội dung vụ án: Doanh nghiệp tư nhân V do Nguyễn Danh H làm Giám đốc. Trong khoảng thời gian từ tháng 8/2012 đến tháng 3/2014, Nguyễn Danh H mua nhiều hàng hóa là vật tư, phụ tùng ô tô trôi nổi trên thị trường không có hóa đơn chứng từ nguồn gốc để phục vụ hoạt động kinh doanh nghề sửa chữa ô tô.
H đã hợp thức hóa bằng cách mua 10 hóa đơn giá trị gia tăng không (hóa đơn không có hàng hóa kèm theo) của Công ty Đ do Trương Văn Đi bán ra, bao gồm các hóa đơn với tổng số tiền mua hàng chưa thuế là 3.520.572.000 đồng, tiền thuế là 352.057.200 đồng. Với việc sử dụng 70 hóa đơn trên để kế khai với Chi cục thuế huyện A vào các kỳ từ tháng 8, 9 năm 2012, tháng 8, 9, 10, 11, 12 năm 2013, tháng 01, 02, 03 năm 2014, Doanh nghiệp tư nhân V đã được Chi cục thuế huyện A khấu trừ tiền thuế giá trị gia tăng là 352.057 200 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: Bị cáo Nguyễn Danh H đã có hành vi sử dụng 10 tờ hóa đơn lập không của Công ty Đ để kẻ khai với Chi cục Thuế huyện A nhằm mục đích trốn tiền thuế giá trị gia tăng đầu vào, số tiền trốn thuế là 352.067.200 đồng. Tính chất vụ án tuy ít nghiêm trọng nhưng hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý thuế của Nhà nước làm thất thu ngân sách Nhà nước, xâm hại đường lối phát triển kinh tế, xã hội, gây mất trật tự xã hội, gây dư luận xấu trong nhân dân,
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Xử phạt bị cáo Nguyễn Danh H 09 tháng tù về tội trốn thuế. Về phần trách nhiệm dân sự bị cáo phải nộp số tiến 352.057.200 đồng để nộp ngân sách Nhà nước qua Chi cục Thuế huyện A, TP. Hải Phòng.
Bản án số 101/2017/HS-PT ngày 13/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh
Nội dung vụ án: Công ty Đ, gồm 02 thành viên góp vốn là Võ Thị T, Nguyễn Thị Mộng T1. Người đại diện theo pháp luật của công ty là bà Võ Thị T giữ chức danh Giám đốc Công ty.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, Nguyễn Thị Mộng T1 là người trực tiếp thực hiện các hoạt động kể khai các thủ tục hải quan để nhập khẩu hàng hóa, tìm đối tác, hợp đồng mua bán, viết hóa đơn xuất hàng, thanh toán tiền hàng hóa, thuê kế toán của doanh nghiệp, cung cấp các chứng từ cho kế toán thực hiện việc báo cáo thuế, quản lý con dấu của Công ty.
Võ Thị T có nhiệm vụ kỳ tên giám đốc Công ty vào các tờ khai hàng hóa nhập khẩu, các hợp đồng giao dịch mua bán, hóa đơn bán hàng và giấy tờ khai thuế hàng tháng của Công ty do T1 cung cấp. Theo số sách của Công ty và tài liệu do Chi cục Thuế huyện T cung cấp: từ tháng 01/2013 đến tháng 6/2013, Công ty đã nhập khẩu 34,710.000 kg cù mì tươi và 13.320.021 kg mì lát khô, đã xuất bản hết. Tuy nhiên, Công ty mới kê khai thuế đối với 28.710.000 kg cũ mà tuổi và 3.050 157 kg mì lát khô. Số còn lại là 6.000.000 ko cả mì tươi và 10.319 564 kg mì lát khô đã xuất bản hết trong thời gian từ tháng 3/2013 đến tháng 6/2013 nhưng không ghi chép các khoản doanh thu bán hàng trên số kế toán, không lập hóa đơn bản hàng giao cho người mua, không kê khai nộp thuế theo quy định.
Ngày 23/7/2013, Chi cục Thuế huyện T kiểm tra tại Công ty phát hiện sai phạm nên ngày 22/10/2013 đã ban hành thông báo về việc hóa đơn giá trị gia tăng của Công ty Đ không còn giá trị sử dụng.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Các bị cáo Võ Thị T, Nguyễn Thị Mộng T1 phạm tội “trốn thuế, xử phạt bị cáo T 02 năm tù, cho hưởng án treo. Xử phạt bị cáo T1 02 năm 06 tháng tù giam. Buộc 02 bị cáo liên đối nộp 3.381.453.707 đồng cho Chi cục Thuế huyện T, tỉnh Tây Ninh để nộp ngân sách nhà nước. Ngày 29/6/2017, các bị cáo kháng cáo cho rằng mình không phạm tội trốn thuế.
Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Công ty TNHH Đ thuộc loại hình công ty TNHH hai thành viên trở lên, là doanh nghiệp. Do đó Công ty Đ nếu có nợ thuế, trốn thuế thì Công ty có nghĩa vụ phải nộp nhưng cấp sơ thẩm không đưa Công ty Đ vào tham gia tỏ tụng với tư cách là bị đơn dân sự là thiếu sót nghiêm trong
Về nợ thuế GTGT, cần điều tra làm rõ việc Công ty Đ đã bán hàng, kê khai, xuất hóa đơn bán hàng, báo cáo thuế vào tháng 8, 9 năm 2013 như cáo trạng cho rằng hai bị cáo đã hợp thức hóa ghi chép, xuất hóa đơn và báo cáo thuê phù hợp với hàng hóa xuất, nhập trong thời gian nộp hồ sơ khai quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp. Công ty xuất hóa đơn GTGT vào tháng 8, 9 năm 2013 là đang còn giá trị.
Như vậy, có việc hợp thức hóa hay phản ánh thực tế kinh doanh. Mặt khác khi xác định giá trị số tiền của số hàng mà công ty Đ vi phạm thì quá trình điều tra chưa điều tra làm rõ giá thực tế hàng hóa do công ty bán ra mà lấy giá do ngành thuế ăn giá theo giá trung bình ở địa phương là không chính xác, bởi là có nhiều doanh nghiệp đã xác nhận mì lát khô của công ty Đ giao theo hợp đồng là không báo đảm chất lượng nên không nhận hàng hoặc giảm giá. Do đó, cấp sơ thẩm tỉnh thuế không chính xác, cần phải điều tra làm rõ giá thực tế công ty Đ đã ban ra, làm cơ sở tính thuế GTGT. Tòa án phúc thẩm tuyên: Hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho VKSND huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh để điều tra lại theo thủ tục chung.
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn về Các vụ án trốn thuế thu nhập doanh nghiệp tiêu biểu . Mọi vấn đề còn vướng mắc hãy liên hệ với chúng tôi để được giải đáp cụ thể hơn.
Luật Đại Nam – Trao uy tín nhận niềm tin!
Liên hệ Hotline Luật Đại Nam để được tư vấn chuyên sâu nhất.
– Yêu cầu tư vấn: 0967370488/0975422489
– Yêu cầu dịch vụ: 0967370488/0975422489
– Email: luatdainamls@gmail.com
XEM THÊM
Thuế suất thuế gtgt ngành xây dựng năm 2023.