Thuế giá trị gia tăng là thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Vậy lịch sử hình thành thuế GTGT như thế nào? Thuế GTGT ra đời vào năm nào? Bài viết dưới đây phân tích lịch sử và một số vấn đề khác liên quan đến pháp luật thuế giá trị gia tăng, cụ thể:
Nội Dung Chính
Thuế giá trị gia tăng là gì ?
Thuế giá trị gia tăng (GTGT) có tên viết tắt là VAT từ cụm từ tiếng Anh Value Added Tax: thuế giá trị gia tăng. Thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu và Pháp là nước đầu tiên trên thế giới ban hành Luật thuế giá trị gia tăng vào năm 1954. Khai sinh từ nước Pháp, thuế GTGT đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Ngày nay, các quốc gia thuộc khối Liên minh Châu Âu, châu Phi, châu Mỹ La Tinh và một số quốc gia Châu á trong đó có Việt Nam đã chính thức áp dụng thuế GTGT. Tính đến nay đã có khoảng 130 quốc gia áp dụng thuế GTGT.
Căn cứ theo Điều 2 Luật Thuế giá trị gia tăng 2008, thuế giá trị gia tăng là một loại thuế gián thu đánh trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Và được nộp vào ngân sách Nhà nước theo mức độ tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ.
Lịch sử ra đời thuế giá trị gia tăng ở thế giới
Phương thức thu thuế đối với phần giá trị tăng thêm của hàng hóa được áp dụng đầu tiên ở Pháp vào năm 1954.
Từ năm 1968, Pháp mở rộng diện áp dụng loại thuế này đối với dịch vụ. Do có ưu thế là việc thu thuế không gây ra tình trạng đánh thuế trùng lặp nên thuế giá trị gia tăng (tiếng Anh là Value Added Tax – Viết tắt: VAT) ngày càng được nhiều nước áp dụng.
Năm 1977, Cộng đồng châu Âu ra Nghị quyết số 06 về hoàn thiện cơ chế thu thuế giá trị gia tăng và xem việc áp dụng nó là điều kiện để gia nhập cộng đồng. Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các nước xã hội chủ nghĩa không áp dụng loại thuế này. Hiện nay, trên thế giới có hơn 100 nước áp dụng thuế giá trị gia tăng. Các nước xã hội chủ nghĩa trước đây cũng triển khai áp dụng loại thuế này (Liên bang Nga tháng 01.1992; Bungari tháng 4.1994; Cộng hòa Séc tháng. 01.1993; Mông Cổ tháng 5 năm 1993; Ucraina tháng 01.1992…).
Lịch sử ra đời thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam
Từ cuối những năm 80 của thế kỉ XX ở Việt Nam đã triển khai nghiên cứu việc áp dụng thuế giá trị gia tăng. Thuế GTGT được nghiên cứu từ khi tiến hành cải cách thuế bước 1 (năm 1990), áp dụng thử nghiệm năm 1993 ở 11 đơn vị (ngành đường, dệt, xi măng). Sau nhiều lần sửa đổi, ngày 06/3/2008, Luật Thuế GTGT số 13/2008/QH ra đời thay thế cho Luật Thuế GTGT số 57/1997/L-CTN đã đánh dấu sự phát triển mới về chính sách thuế GTGT của nước ta. Qua gần 9 năm thực hiện, Luật Thuế GTGT số 13/2008/QH đã được sửa đổi, bổ sung 3 lần (vào các năm 2013, 2014 và 2016) để phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Về bản chất kinh tế, thuế giá trị gia tăng là thuế gián thu. Khác với thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng được thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ. Phần giá trị tăng thêm (gia tăng) của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng là phần chênh lệch lớn hơn giữa giá đầu ra với giá trị đầu vào (giá bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ). Giá đầu vào và giá đầu ra được xác định theo phương thức mà pháp luật quy định.
Đặc điểm thuế giá trị gia tăng
Thuế GTGT là một loại thuế độc lập. Thuế GTGT có những đặc điểm sau:
Là loại thuế gián thu
Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế gián thu đánh trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ. Thuế GTGT còn được phát sinh đến khâu cuối cùng là tiêu dùng. Người tiêu dùng sẽ là người chịu thuế.
Là loại thuế có đối tượng chịu thuế lớn
Hầu hết mọi đối tượng trong xã hội sẽ phải chịu thuế GTGT. Việc đánh thuế trên phạm vi lãnh thổ với mọi đối tượng thể hiện sự công bằng của thuế. Đồng thời thể hiện thái độ của Nhà nước đối với các loại tiêu dùng trong xã hội. Đối với trường hợp cần khuyến khích tiêu dùng hoặc hạn chế việc trả tiền thuế của người tiêu dùng, Nhà nước sẽ không đánh thuế hoặc đánh thuế với mức thuế suất thấp nhất.
Là loại thuế chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ
Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt thuế GTGT với những loại thuế gián thu khác. Thuế GTGT ở tất cả các khâu. Từ quá trình sản xuất đến quá trình lưu thông hàng hóa và cả quá trình tiêu dùng. Việc đánh thuế chỉ trên phần giá trị tăng thêm mà không phải đối với toàn bộ giá trị hàng hóa, dịch vụ.
Số thuế phải nộp sẽ phụ thuộc vào giai đoạn đánh thuế
Như đã nói ở trên, thuế GTGT đánh ở tất cả các khâu, các giai đoạn. Từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng. Ở mỗi giai đoạn có số thuế GTGT khác nhau. Từ khâu sản xuất đến khâu lưu thông, số thuế giá trị gia tăng là một con số. Từ khâu lưu thông đến khâu tiêu dùng thì số thuế giá trị gia tăng đã khác. Tổng số thuế nộp ở các khâu chính là số thuế cuối cùng tính trên tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ. Và người tiêu dùng sẽ mua và phải gánh chịu.
Thuế VAT bao nhiêu phần trăm (%)?
Khi bạn đi mua một chiếc tivi, tủ lạnh, bạn sẽ thấy trong hóa đơn có dòng “Thuế VAT” đi kèm đó là 10% giá trị hàng hóa, dịch vụ đó.
Thuế suất thuế GTGT là 10% áp dụng với hàng hóa, dịch vụ được quy định tại Điều 4, Điều 9, Điều 10 Thông tư 219/2013/TT-BTC.
Như vậy, nếu bạn mua một chiếc tivi trị giá 15 triệu, bạn sẽ phải trả thêm thuế VAT 10% là 1,5 triệu, tổng cộng bạn sẽ phải thanh toán là 16,5 triệu.
Yêu cầu đối với pháp luật thuế giá trị gia tăng
Ban hành Luật thuế giá trị gia tăng được coi là bước đột phá ttong quá trình cải cách, hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế. Để đảm bảo tính hiệu quà, pháp luật thuế giá trị gia tăng cần đáp ứng một số yêu cầu sau:
Đảm bảo tính thống nhất, tính ổn định và tính khả thi
– Đảm bảo tính thống nhất, tính ổn định và tính khả thi. Thuế giá trị gia tăng là loại thuế phức tạp, các vấn đề có liên quan đến thuế giá trị gia tăng được quy định tại nhiều văn bản pháp luật, với hiệu lực pháp lí khác nhau, mức độ điều chỉnh trực tiếp hay gián tiếp khác nhau. Tất cả sự khác nhau này chỉ có thể là khác nhau về trật tự áp dụng nhưng về nội dung phải đảm bảo tính thống nhất; phù hợp với thực tế đời sống kinh kinh tế, có tính ổn định, tạo niềm tin cho các chủ thể kinh doanh.
Đảm bảo tính đơn giản trong quá trình áp dụng
– Đảm bảo tính đơn giản trong quá trình áp dụng. Tính đơn giản thể hiện ờ nhiều khía cạnh khác nhau:
+ Đơn giản về cách hiểu, áp dụng đối với cơ quan quản lí, thu thuế;
+ Đơn giản về cách hiểu, tuân thủ đối với đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng;
+ Đơn giản về trình tự thủ tục trong suốt quá trình quản lí và chịu sự quản lí về thuế giá trị gia tăng.
Hướng tới người nộp thuế
– Hệ thống pháp luật thuế giá trị gia tăng cần hướng tới người nộp thuế. Thể hiện yêu cầu này, những quy định về việc kê khai, nộp thuê phải thể hiện sự tôn trọng người nộp thuế: tối đa hoá cơ hội tự kê khai, tự nộp thuế của đối tượng nộp thuế. Bên cạnh đó, đối với trường hợp vi phạm, quy định các chế tài thực sự nghiêm khắc: bao gồm chế tài hành chính với mức phạt cao; che tài hình sự áp dụng đối với nhiều loại hành vi vi phạm khác nhau.
Trên đây là một số nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề ” Thuế GTGT ra đời năm nào”. Bên cạnh đó còn có một số vấn đề pháp lý có liên quan. Tất cả các ý kiến tư vấn trên của chúng tôi về đều dựa trên các quy định pháp luật hiện hành.
Liên hệ Hotline Luật Đại Nam để được tư vấn chuyên sâu nhất.
– Yêu cầu tư vấn: 0967370488- 0975422489
– Hotline: 02462.544.167
– Email: luatdainamls@gmail.com
XEM THÊM
Thuế GTGT quý 1 2022 có được gia hạn