Quan hệ giữa vợ và chồng là mối quan hệ có vai trò quan trọng đối với việc bảo đảm tính bền vững của gia đình. Luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội là quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh giữa các thành viên trong gia đình, trong đó có quan hệ giữa vợ và chồng. Một trong những mối quan hệ đó là quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng. Chính vì vậy, bài viết sau đây, Luật Đại Nam xin hỗ trợ thắc mắc của bạn về Quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ và chồng được quy định như thế nào?
Nội Dung Chính
Căn cứ pháp lý
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Định nghĩa quyền, nghĩa vụ nhân thân của vợ và chồng
Quyền và nghĩa vụ nhân thân mang yếu tố tình cảm, là lợi ích tinh thần giữa vợ và chồng, gắn liền với bản thân vợ chồng trong suốt thời kỳ hôn nhân. Nội dung của quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ và chồng là lợi ích tinh thần, là yếu tố tình cảm, không mang nội dung kinh tế, không phụ thuộc vào khả năng kinh tế của vợ chồng.
Quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng là chuẩn mực đạo đức, cách ứng xử mang tính tự nhiên và truyền thống giữa vợ và chồng. Vì vậy, khi điều chỉnh những quan hệ đó phải kết họp giữa các quy định của pháp luật với những quy tắc đạo đức và lẽ sống trong xã hội.
Đặc điểm của quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng
Thứ nhất, quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ, chồng phát sinh do sự kiện kết hôn
trừ trường hợp những trường hợp hai bên nam nữ chung sống với nhau trước ngày 03/01/1987 mà không có giấy đăng ký kết hôn. Như vậy, khi có sự kiện nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn thì đương nhiên xuất hiện các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa họ.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ nhân thân gắn liền với mỗi bên vợ chồng và không thể chuyển giao.
Có nghĩa là nó có tính độc lập, cá biệt hoá cá nhân này với cá nhân khác, không thể trộn lẫn. Các quyền, nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng không thể là đối tượng chuyển dịch cho bất kì ai, không thể do người khác thực hiện thay mà chỉ phụ thuộc giữa vợ và chồng. Nó chấm dứt khi quan hệ hôn nhân không còn tồn tại nữa.
Thứ ba, quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ, chồng được quy định tương ứng giữa hai bên.
Tức là, quyền của người này chính là nghĩa vụ của người kia. Chúng tồn tại song hành lẫn nhau, tạo ra mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa hai bên chủ thể trong suốt thời kì hôn nhân này.
Quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ và chồng
Quyền và nghĩa vụ thể hiện mối quan hệ tình cảm với nhau
Nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, quan tâm, chăm sóc nhau được điều chỉnh bằng các nguyên tắc đạo đức, truyền thống và theo phong tục, tập quán của người Việt Nam rồi sau đó được nâng dần lên thành luật. Vi phạm những quy tắc đạo đức chỉ bị xã hội lên án, vi phạm các quy tắc pháp luật sẽ bị xử phạt theo quy định.
Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình nêu rõ:
“1.Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; cùng nhau chia sẻ , thực hiện các công việc trong gia đình.
2.Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ, chồng có có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lí do chính đáng khác.”
Về nghĩa vụ chung sống
Có thể hiểu rằng hôn nhân trước hết là cuộc sống chung giữa người đàn ông và người phụ nữ: chung nhà, chung bàn ăn và chung chăn gối.
Tất nhiên, vợ và chồng không nhất thiết phải ở chung, ăn chung, ngủ chung một cách liên tục, thường xuyên trong suốt thời kỳ hôn nhân; song, ít nhất giữa họ luôn phải có mối liên hệ sâu đậm về phương diện sinh hoạt vật chất và tinh thần. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 ghi nhận một cách rõ ràng nghĩa vụ chung sống; tuy nhiên, không thể nói rằng mục đích của hôn nhân đã đạt được một khi hai bên kết hôn không thực sự chung sống với nhau.
Về nghĩa vụ thể hiện mối quan hệ tình cảm bằng việc luôn tôn trọng, bảo vệ danh dự, nhân phẩm cho đối phương.
Điều 21 Luật hôn nhân gia đình đã quy định:
“Vợ chồng có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau.”
Có thể thấy, vấn đề này có sự liên quan ảnh hưởng mật thiết giữa cả hai bên vợ và chồng. Khi vợ chồng có ý thức, trách nhiệm bảo vệ danh dự, uy tín của người kia thì đồng thời chính bản thân mình cũng sẽ được mọi người tôn trọng. Pháp luật không cho phép các trường hợp vợ, chồng xúc phạm, bôi nhọ, làm xấu đi danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau vì bất cứ mục đích nào.
Bởi bất cứ ai có lời nói, cử chỉ, hành vi làm nhục người khác, xâm phạm đến danh dự uy tín đã là trái pháp luật thì vợ chồng-những người gắn kết với nhau bằng tình yêu, tự nguyện kết hôn chung sống tạo lập cuộc sống gia đình chung càng cần phải ý thức sâu sắc vấn đề bảo vệ, tôn trọng uy tín của nhau.
Quyền bình đẳng, tự do, dân chủ giữa vợ và chồng
Hiện nay, quyền bình đẳng, dân chủ giữa vợ và chồng được BLDS và Luật HNGĐ 2014 điều chỉnh. Điều này thể hiện sự bình đẳng của vợ chồng khi cùng nhau bàn bạc, quyết định các vấn đề liên quan đến nhân thân của vợ chồng và của mỗi thành viên trong gia đình, liên quan đến đời sống chung của gia đình.
Theo Điều 20 Luật HNGĐ 2014 quy định về Quyền bình đẳng của vợ chồng được thể hiện qua quyền lựa chọn nơi cư trú
Vợ, chồng bình đẳng, tự do thỏa thuận cùng nhau và đưa đến quyết định chung về việc chọn nơi cư trú. Không bên nào có quyền ép buộc người kia phải chọn nơi cư trú theo ý kiến của mình, thuận lợi cho bản thân mà gây khó khăn cho đối phương.
Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong việc nuôi dạy con
Vợ, chồng đều bình đẳng với nhau trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con… tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường lành mạnh, yêu thương, tôn trọng ý kiến của con, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con, quan tâm, chăm lo cho sự phát triển của con về cả thể chất lẫn tinh thần… Đồng thời, vợ chồng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật khi họ không thực hiện tốt nghĩa vụ của mình trong việc chăm sóc, giáo dục con.
Nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số – kế hoạch hóa gia đình
Nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số là nghĩa vụ chung của vợ chồng, vợ chồng phải cùng nhau tạo điều kiện cho nhau thực hiện tốt nghĩa vụ này. Vợ chồng thỏa thuận với nhau về việc lựa chọn số con, các biện pháp phòng tránh thai phù hợp theo chính sách chung về dân số cũng như các vấn đề khác liên quan.
Quyền được lựa chọn nghề nghiệp, học tập và tham gia các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
Dựa trên nguyên tắc vợ chồng bình đẳng với nhau về mọi mặt theo Luật HNGĐ hiện hành và nguyên tắc nam nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, gia đình và xã hội; việc vợ chồng được tự lựa chọn nghề nghiệp riêng cho bản thân là hoàn toàn chính đáng.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Quyền này được quy định tại Điều 22 Luật HNGĐ 2014:
“Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau.”
Đây là môt quy định nhằm xóa bỏ hiện tượng khi kết hôn một bên vợ hoặc chồng ngăn cản sự tự do tín ngưỡng, tôn giáo của bên kia làm ảnh hưởng không chỉ quyền của công dân được pháp luật quy định mà còn ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Vợ, chồng không được cưỡng ép, cản trở nhau theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Quyền đại diện giữa vợ và chồng
Thứ nhất, Luật hôn nhân và gia đình 2014 là quy định cụ thể về các căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng như sau:
“1.Việc đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch được xác định theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2.Vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.’’
Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan.
Thứ hai, khoản 1 Điều 25 Luật hôn nhân và gia đình có quy định và việc đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh:
“Trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung thì người trực tiếp kinh doanh là người đại diện cho bên kia trong quan hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp trước khi tham gia quan hệ kinh doanh, vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc Luật này và các luật liên quan có quy định khác.”
Trường hợp vợ chồng có thỏa thuận bằng văn bản về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó.
Thứ ba, Luật hôn nhân và gia đình 2014 còn quy định về đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng.
Trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi theo quy định của pháp luật.
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn về vấn đề: Quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ và chồng được quy định như thế nào?. Nếu có vấn đề gì mà bạn còn vướng mắc, liên hệ với chúng tôi để được giải đáp cụ thể hơn. Luật Đại Nam – Trao uy tín nhận niềm tin!
Liên hệ Hotline Luật Đại Nam để được tư vấn chuyên sâu nhất.
– Yêu cầu tư vấn: 0975422489 – 0961417488
– Yêu cầu dịch vụ: 0975422489 – 0967370488
– Email: luatdainamls@gmail.com
XEM THÊM
- Thủ tục xin trích lục kết hôn mới nhất năm 2023
- Mẫu đơn xin trích lục giấy đăng ký kết hôn
- Bản sao trích lục kết hôn để làm gì?