Phân biệt tranh chấp dân sự và tranh chấp kinh doanh thương mại

by Vũ Khánh Huyền

Xác định đúng một tranh chấp là tranh chấp dân sự hay tranh chấp kinh doanh thương mại là điều cần thiết quá trình giải quyết vụ tranh chấp. Nếu xác định sai quan hệ pháp luật tranh chấp sẽ dẫn đến áp dụng sai pháp luật đối với vụ việc, gây ra những khó khăn không đáng có. Vì vậy, Luật Đại Nam mang đến cho độc giả chủ đề này với mong muốn giúp bạn đọc có thể phân biệt được hai loại tranh chấp này. Nếu muốn tìm hiểu chi tiết, hãy xem ngay bài viết sau.

>> Xem thêm: Tranh chấp đất đai không hoà giải có được không ?

>> Xem thêm: Tranh chấp đất đai không hoà giải có được không ?

Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Tố tụng dân sự ;
  • Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP;
  • Luật Luật sư ;
  • Luật thương mại .

Phân biệt tranh chấp dân sự và tranh chấp kinh doanh thương mại

Việc phân biệt tranh chấp dân sự và tranh chấp kinh doanh thương mại điều rất quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp, vì tùy thuộc vào loại tranh chấp mà thẩm quyền của Tòa án, thời hạn giải quyết, các quy định pháp luật điều chỉnh sẽ có sự khác biệt (đơn cử như mức phạt vi phạm hợp đồng, hay cách tính lãi chậm trả). Tuy nhiên, hiện nay các quy định của pháp luật vẫn còn chồng chéo và chưa rõ ràng nên việc xác định tranh chấp dân sự và tranh chấp kinh doanh thương mại vẫn còn nhiều khó khăn.

Có thể hiểu sơ lược về khái niệm của hai loại tranh chấp này như sau:

  • Tranh chấp dân sự là các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ dân sự (quan hệ nhân thân hoặc quan hệ tài sản), được luật dân sự điều chỉnh.
  • Tranh chấp kinh doanh thương mại là các tranh chấp phát sinh từ các hoạt động kinh doanh thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận (khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015)

Như vậy, theo Bộ luật Tố tụng dân sự, cần phải đảm bảo các điều kiện sau đây thì một vụ tranh chấp mới được coi là tranh chấp về kinh doanh, thương mại:

  • Phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại;
  • Các bên tranh chấp là tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh;
  • Các bên đều có mục đích lợi nhuận.

Trong trường hợp các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa các doanh nghiệp, hoặc giữa doanh nghiệp với cá nhân có đăng ký kinh doanh thì khá dễ dàng để xác định đây là tranh chấp kinh doanh, thương mại (trừ trường hợp được điều chỉnh bởi pháp luật chuyên ngành). Tuy nhiên, khó khăn được đặt ra trong các trường hợp như sau:

Phát sinh tranh chấp giữa các chủ thể mà một bên hoặc các bên tham gia tranh chấp không có đăng ký kinh doanh nhưng đều vì mục đích lợi nhuận.

Có đăng ký kinh doanh có thể được hiểu là tổ chức được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp/hợp tác xã, cá nhân được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh/doanh nghiệp tư nhân (theo tinh thần khoản 1 Điều 6 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP). Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các bên tham gia hoạt động kinh doanh thương mại mà không có những Giấy tờ này. Hiện nay tồn tại hai quan điểm là bắt buộc hoặc không bắt buộc phải có các giấy tờ trên (có đăng ký kinh doanh) để được coi một tranh chấp là về kinh doanh, thương mại

Quan điểm thứ nhất: Căn cứ theo Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì tranh chấp kinh doanh, thương mại chỉ phát sinh khi các bên có đăng ký kinh doanh. Một số các văn bản khác cũng nêu rõ điều kiện này, như tại Công văn số 212/TANDTC-PC về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử ngày 13-9-2019 có hướng dẫn đối với trường hợp tranh chấp giữa doanh nghiệp bảo hiểm với người mua bảo hiểm, trong đó, mặc dù tranh chấp phát sinh giữa một bên là công ty bảo hiểm đã có đăng ký kinh doanh, hai bên ký kết hợp đồng đều có mục đích lợi nhuận nhưng vì người mua bảo hiểm không có đăng ký kinh doanh nên phải xác định đây là tranh chấp dân sự, cụ thể: “nếu người mua bảo hiểm có đăng ký kinh doanh thì tranh chấp đó là tranh chấp kinh doanh, thương mại. Nếu người mua bảo hiểm không có đăng ký kinh doanh thì tranh chấp được xác định là tranh chấp về dân sự”.

Tuy nhiên, các quan điểm khác cho rằng việc có đăng ký kinh doanh, được cấp các loại giấy chứng nhận đăng ký không nhất thiết là điều kiện bắt buộc, mà chỉ cần có hoạt động kinh doanh, thương mại trên thực tế. Điều 7 Luật thương mại 2005 quy định: “Thương nhân có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Trường hợp chưa đăng ký kinh doanh, thương nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật”. Ngoài ra, cũng có thể căn cứ theo tinh thần của điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP, theo đó “Tòa kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận”

Trong thực tế, vẫn có những vụ việc tranh chấp với cá nhân không có đăng ký kinh doanh mà Tòa án vẫn xác định là tranh chấp về kinh doanh, thương mại. Vậy nên, nếu là tổ chức, cá nhân không có hoặc chưa có đăng ký kinh doanh nhưng vẫn tham gia vào hoạt động kinh doanh thương mại và có mục đích lợi nhuận thì vẫn có khả năng tranh chấp xảy ra vẫn được xác định là tranh chấp kinh doanh, thương mại.

>> Xem thêm: Tranh chấp đất đai không hoà giải có được không ?

Tranh chấp trong đó có một bên không có mục đích lợi nhuận nhưng vẫn chọn Luật Thương mại để áp dụng.

Tương tự với trường hợp không có đăng ký kinh doanh, việc không có mục đích lợi nhuận sẽ không làm phát sinh tranh chấp kinh doanh, thương mại theo khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 1 Luật thương mại 2005 cũng quy định Luật này vẫn điều chỉnh “hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này”. Ngoài ra, nguyên tắc của pháp luật dân sự là tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận không trái với các quy định của pháp luật. Vậy nên chúng tôi nhận định rằng trong trường hợp này, các quy định của Luật thương mại vẫn có thể dùng để điều chỉnh các tranh chấp phát sinh.

Dịch vụ giải quyết tranh chấp dân sự của Luật Đại Nam

  • Tư vấn pháp luật về giải quyết tranh chấp vụ việc dân sự trên các lĩnh vực;
  • Hỗ trợ soạn thảo văn bản, giấy tờ liên quan để giải quyết;
  • Đại diện cho khách hàng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng tại Tòa án;
  • Liên hệ Tòa án và các cơ quan nhà nước khác trong quá trình giải quyết tranh chấp;
  • Giải đáp những thắc mắc của khách hàng trong quá trinh giải quyết.

Trên đây là một số nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề “Phân biệt tranh chấp dân sự và tranh chấp kinh doanh thương mại”. Bên cạnh đó còn có một số vấn đề pháp lý có liên quan. Tất cả các ý kiến tư vấn trên của chúng tôi về  đều dựa trên các quy định pháp luật hiện hành.

Liên hệ Hotline Luật Đại Nam để được tư vấn chuyên sâu nhất.

– Yêu cầu tư vấn: 0967370488- 0975422489

– Yêu cầu dịch vụ: 02462.544.167

– Email: luatdainamls@gmail.com

Xem thêm:

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Contact Me on Zalo
0967370488