Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng

by Nguyễn Thị Giang

Hiện nay, việc xác định thời kì hôn nhân có ý nghĩa trong việc xác định thời điểm phát sinh tài sản chung hay tài sản riêng.Theo quy định của pháp luật thì trong quan hệ hôn nhân gia đình, vợ và chồng sẽ phát sinh những nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng và đồng thời cũng có những nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng.Qua bài viết dưới đây Luật Đại Nam sẽ giải đáp về nội dung Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng như sau:

Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng

Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng

Cơ sở pháp lý

  • Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
  • Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
  • Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 hướng dẫn mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án với các quy định về án phí dân sự, tạm ứng án phí dân sự, án phí hình sự sơ thẩm, phúc thẩm, án phí hành chính sơ thẩm, phúc thẩm.

Quy định về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng

Tài sản chung của vợ và chồng theo quy định của pháp luật sẽ bao gồm các loại tài sản sau:

  • Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
  • Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
  • Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

Như vậy, ta nhận thấy, tài sản chung của vợ chồng được hiểu là tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập từ lao động, các hoạt động sản xuất, kinh doanh buôn bán, các hoa lợi lợi tức sinh ra từ tài sản riêng và các thu nhập hợp pháp khác trong thời kì hôn nhân. Ngoài ra, tài sản chung còn là tài sản được thừa kế, tặng cho chung và các tài sản được vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất được hình thành sau khi kết hôn thì là tài sản chung của vợ chồng trừ trường hợp quyền sử dụng đất đó là có được do tặng cho thừa kế riêng hoặc hình thành từ tài sản riêng.

Quyền nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng

Quy định về tài sản riêng của vợ hoặc chồng:

Luật Hôn nhân và gia đình 2014 và nghị định 126/2014/NĐ-CP của Chính Phủ quy định tài sản riêng của vợ chồng bao gồm các loại tài sản sau:

  • Tài sản có trước khi đăng ký kết hôn.
  • Tài sản được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân.
  • Tài sản được chia sau khi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân.
  •  Tài sản được hình thành từ tài sản riêng.
  •  Hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng sau khi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  • Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng.
  • Quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ.
  • Tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác.
  • Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng.

Quyền của vợ chồng đối với tài sản riêng

Bởi vì các tài sản được nêu trên là tài sản riêng của vợ, chồng nên vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hay không nhập tài sản riêng vào tài sản chung.

Vợ hay chồng sẽ tự mình quản lý, bảo vệ tài sản riêng của mình và tự mình chịu trách nhiệm đối với việc đó. Đối với trường hợp vì một lí do nào đó mà vợ, chồng không thể tự mình quản lý, bảo vệ tài sản của mình thì có thể ủy quyền bằng văn bản cho vợ, chồng của mình hoặc người thứ ba thay mình chiếm hữu tài sản trong phạm vi ủy quyền. Trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó nhưng phải bảo đảm lợi ích cho người có tài sản.

Vợ hay chồng theo quy định của pháp luật sẽ có toàn quyền sử dụng đối với tài sản riêng vào những mục đích mà các chủ thể muốn sử dụng dù là nhu cầu cá nhân hay nhu cầu của cả gia đình. Việc sử dụng tài sản riêng của vơ hay chồng sẽ không cần phải có sự đồng ý của bên kia do vậy người sở hữu tài sản riêng không cần phải phụ thuộc vào ý chí của vợ, chồng của mình.

Ta nhận thấy, hiện nay, việc phân chia rõ ràng tài sản riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quyền định đoạt tài sản bởi vì theo quy định của pháp luật thì vợ, chồng có quyền tự định đoạt tài sản riêng của mình, có thể sử dụng tài sản riêng để thực hiện các nghĩa vụ riêng, có thể chuyển giao quyền sở hữu hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản riêng mà không cần phụ thuộc vào bên kia. Cũng cần lưu ý rằng, cho dù là tài sản riêng và có quyền tự định đoạt nhưng quyền định đoạt của vợ, chồng đối với tài sản riêng sẽ bị hạn chế trong một số trường hợp nhằm bảo đảm cuộc sống chung của gia đình như trường hợp hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ và nếu tài sản chung không có hoặc không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên.

Việc pháp luật nước ta đưa ra những quy định về tài sản riêng của vợ chồng không làm ảnh hưởng tới tính chất của quan hệ hôn nhân và cũng không ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình bởi vì trong cuộc sống hôn nhân hòa thuận, hạnh phúc thì họ có thể thỏa thuận để người có tài sản riêng nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng mà không có sự phân biệt tài sản riêng của vợ của chồng. Việc các chủ thể nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung là được pháp luật cho phép và phải thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng và được quy định cụ thể tại điều 46 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng

Thứ nhất, cần có hướng dẫn về việc xác định nghĩa vụ tài sản phát sinh trong trường hợp phán quyết ly hôn của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật mà hai bên không sống chung, ly thân

Khi một hoặc cả hai bên vợ, chồng có đơn yêu cầu xin ly hôn, Tòa án sẽ thụ lý và giải quyết bằng một quá trình tố tụng cho đến khi có bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật nhằm chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa họ. Nhưng theo pháp luật tố tụng dân sự thì bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên mà phải có một thời hạn nhất định để có thể kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà vợ, chồng không sống chung với nhau và phát sinh nghĩa vụ tài sản thì xác định như thế nào? Tòa án sẽ xác định tiếp nghĩa vụ trả các khoản nợ đó hay do vợ, chồng tự thỏa thuận với nhau? Để bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các cặp vợ, chồng, đồng thời, giúp cho quá trình giải quyết vụ việc được đơn giản và thống nhất, hệ thống văn bản pháp luật hôn nhân và gia đình của nước ta cần có thêm những hướng dẫn cụ thể về vấn đề này theo hướng đây là những nghĩa vụ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân. Mặc dù các bên không còn chung sống với nhau nhưng do bản án hoặc quyết định ly hôn của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật nên theo quy định tại khoản 1 Điều 57 thì đây là thời điểm quan hệ hôn nhân chưa chấm dứt, các bên vẫn tồn tại quan hệ vợ, chồng. Do vậy, cần dựa vào quy định tại Điều 37 và Điều 45 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng như yêu cầu của vợ, chồng để giải quyết cho phù hợp.

Pháp luật hôn nhân và gia đình hiện nay chưa quy định về ly thân, tuy nhiên trên thực tế vì nhiều lý do khác nhau mà ly thân ngày càng được nhiều cặp vợ, chồng lựa chọn. Ly thân có thể hiểu là tình trạng vợ, chồng không sống chung với nhau và có thể họ thỏa thuận với nhau hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Bởi vì không quy định về ly thân cho nên dù các bên không sống chung với nhau hoặc kèm theo việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì khoảng thời gian các bên không sống chung với nhau vẫn được luật xác định là trong thời kỳ hôn nhân. Do vậy, nếu phát sinh nghĩa vụ tài sản thì tương tự như trường hợp trên, Tòa án dựa vào quy định tại Điều 37 và Điều 45 để xác định nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng.

Thứ hai, cần có quy định cụ thể về việc xác định nghĩa vụ của vợ, chồng đối với các nghĩa vụ tài sản phát sinh trong thời gian một bên vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố là đã chết mà trở về

Trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố là đã chết trở về thì quan hệ tài sản giữa họ và người chồng, người vợ còn sống đã được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 dự liệu tại khoản 2 Điều 67. Tuy nhiên, quy định này chỉ giải quyết việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của các bên mà không xác định trách nhiệm của mỗi bên đối với nghĩa vụ tài sản phát sinh trong thời gian một bên vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố chết.

Đối với trường hợp này, nên quy định rõ những nghĩa vụ tài sản phát sinh từ các giao dịch mà vợ, chồng đã xác lập, thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu của gia đình và chăm sóc, giáo dục con cái, thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng đối với các thành viên gia đình là nghĩa vụ chung của vợ, chồng, cho dù quan hệ hôn nhân giữa họ có được khôi phục hay không, tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp giữa vợ, chồng với nhau và với người thứ ba. Cụ thể:

– Đối với con chung, ngay cả khi quan hệ hôn nhân giữa vợ, chồng không được phục hồi do đã có bản án ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật hoặc người còn sống đã kết hôn với người khác thì bên không trực tiếp nuôi con vẫn phải có trách nhiệm cùng trả khoản nợ mà bên trực tiếp nuôi con đã vay để nuôi con. Bởi lẽ, khi bên vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố là đã chết trở về, đã có quyết định hủy tuyên bố chết của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì mặc dù quan hệ hôn nhân của họ với người còn sống chấm dứt tuy nhiên quan hệ cha con, mẹ con không chấm dứt. Với tư cách là cha mẹ của con, khoản 1 Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”. Hơn nữa, khoản vay để nuôi con là nghĩa vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của gia đình, do vậy làm phát sinh nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng.

– Đối với con riêng hoặc cha mẹ đẻ của người vợ, người chồng còn sống thì bên bị Tòa án tuyên bố chết cũng phải chịu trách nhiệm đối với những khoản nợ đã vay để chi phí nuôi dưỡng, cấp dưỡng trong thời điểm người đó bị Tòa án tuyên bố chết. Xuất phát từ quy định trong khoản 1 Điều 79 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Cha dượng, mẹ kế có quyền và nghĩa vụ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng của bên kia cùng sống chung với mình” và “trong trường hợp con dâu, con rể sống chung với cha mẹ chồng, cha mẹ vợ thì giữa các bên có các quyền và nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ nhau theo quy định tại các điều 69, 70, 71 và 72 của Luật này”[3] thì đây là nghĩa vụ với tư cách là cha dượng, mẹ kế đối với con riêng hoặc là con dâu, con rể đối với cha mẹ chồng, cha mẹ vợ. Do đó, khi con riêng sống chung với cha dượng, mẹ kế, cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng cùng sống chung với con rể, con dâu thì giữa họ phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc lẫn nhau.

Thứ ba, hiện nay trong thực tiễn có rất nhiều giao dịch do một bên vợ, chồng thực hiện, không phải đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình, cũng không có thỏa thuận giữa vợ, chồng, không thuộc các trường hợp vợ, chồng đại diện cho nhau theo pháp luật hay ủy quyền nhưng khoản hoa lợi, lợi tức từ việc thực hiện giao dịch đó (như vay tiền kinh doanh bất động sản, hụi, họ….) lại phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của gia đình như mua nhà cho cả gia đình ở. Khi phát sinh nghĩa vụ phải trả nợ thì không thể xác định là trách nhiệm liên đới của vợ, chồng, người nào vay người đó phải trả. Người vợ hoặc người chồng còn lại cũng không đồng ý bán tài sản để lấy tiền cho chồng hoặc vợ của họ trả nợ. Trong trường hợp này thường phải thực hiện việc chia tài sản chung của vợ, chồng trước rồi mới có thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể có liên quan. Vì vậy, trong những trường hợp một bên vợ hoặc chồng thực hiện giao dịch không phải đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình, nhưng bên còn lại biết và hoa lợi, lợi tức từ giao dịch đó phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của gia đình thì cần xác định nghĩa vụ trả nợ là nghĩa vụ chung của vợ, chồng. Có thể coi đây là một trường hợp của nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình.

Thứ tư, về tài sản dùng để thực hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp hai vợ chồng thực hiện nghĩa vụ chung về tài sản, nếu vợ, chồng không có tài sản chung và một bên vợ, chồng không có tài sản riêng còn bên kia có tài sản riêng thì có phải dùng tài sản riêng để thực hiện nghĩa vụ hay không và trong trường hợp này có phát sinh nghĩa vụ hoàn trả giữa vợ, chồng hay không? Trước đây, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng” (khoản 4 Điều 33). Hiện nay, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định tương tự “Trong trường hợp vợ, chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên” (khoản 2 Điều 30). Do đó, cần có quy định cụ thể trong trường hợp này theo hướng bên vợ hoặc chồng có tài sản riêng thì phải dùng tài sản riêng để bồi thường và không làm phát sinh nghĩa vụ hoàn trả giữa vợ, chồng, bởi vì trong trường hợp này, nghĩa vụ chung của vợ, chồng trong việc bảo đảm quyền lợi của người thứ ba cũng được coi là cần thiết.

Thứ năm, xác định nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng. Luật Hôn nhân và gia đình cần bổ sung quy định “nghĩa vụ phát sinh khi vợ, chồng tạo ra tài sản cho gia đình” cũng là nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng. Trong Luật Hôn nhân và gia đình hiện nay mới chỉ quy định nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung là nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng mà bỏ qua nghĩa vụ phát sinh khi vợ, chồng xác lập, thực hiện các giao dịch để tạo ra tài sản chung của vợ, chồng, bởi vì, mục đích của các hoạt động trên đều nhằm tạo lập, phát triển khối tài sản chung của vợ, chồng, tạo dựng cơ sở kinh tế đáp ứng nhu cầu của các thành viên trong gia đình.

Thứ sáu, quy định thống nhất trong các văn bản luật về nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng. Để bảo đảm hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực hôn nhân và gia đình thì Luật Hôn nhân và gia đình phải được đặt trong mối liên hệ với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Điều 6 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Các quy định của Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình trong trường hợp Luật này không quy định”. Do vậy, khoản 6 Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chỉ rõ nếu trong quy định của các luật khác có liên quan quy định về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng, thì đó sẽ là căn cứ pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng, theo đó, cả hai vợ, chồng cùng phải thực hiện nghĩa vụ hoặc phải dùng tài sản thuộc sở hữu chung để thanh toán cho người có quyền.

Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn về vấn đề: Tài sản riêng của vợ, chồng là gì?. Nếu có vấn đề gì mà bạn còn vướng mắc, liên hệ với chúng tôi để được giải đáp cụ thể hơn. Luật Đại Nam – Trao uy tín nhận niềm tin!

Liên hệ Hotline Luật Đại Nam để được tư vấn chuyên sâu nhất.

– Yêu cầu tư vấn: 0975422489 – 0961417488

– Yêu cầu dịch vụ: 0975422489 – 0967370488

– Email: luatdainamls@gmail.com

XEM THÊM

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Contact Me on Zalo
0967370488